18 kinh cần thuộc

June 18, 2014 by admin. 3.9k people have read this article. Apr 24, 2015 · Vocabulary For IELTS Audio + PDF Addeddate 2015-04-24 21:58:18 Identifier VocabularyForIELTSAudio Identifier-ark ark:/13960/t84j3wz06 Ocr ABBYY FineReader 9.0 Ppi 600. 978-0-521-17921-8 – Cambridge Vocabulary for IELTS Advanced Band 6.5+ Pauline Cullen Frontmatter KINH TIN KÍNH - Font chữ to dễ đọc - Phiên bản chữ cho các anh chị em thuận tiện sao chép: KINH TIN KÍNHTôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc v KINH SÁNG DANH - Font chữ to dễ đọc - Phiên bản chữ cho các anh chị em thuận tiện sao chép: KINH SÁNG DANHSáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đư Cập nhật ngày 08/05/2020 Bởi admin. 1. DẤU THÁNH GIÁ. Nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. 2. KINH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN. Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng. Chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng Trẻ em: Chưa có đủ dữ liệu về việc sử dụng thuốc Beratan ở trẻ em 0 -18 tuổi. Do đó, không khuyến cáo sử dụng thuốc ở nhóm đối tượng này. Quá liều: Kinh nghiệm cho thấy việc sử dụng tới liều 900mg/ngày trong 8 tuần ở người lớn cũng không gây độc tính. Tổng hợp phim 18+ full vietsub, tất cả phim 18+ 2021 cập nhật mới nhất thuyết minh trọn bộ Quay lại Trang chủ Nhập phim cần tìm Tìm kiếm htenchakfody1976. 1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Nàdika bộ lạc Na-đề-ca tại Ginjakàvasatha nhà làm bằng gạch. Lúc bấy giờ, Thế Tôn thường hay tuyên bố về vấn đề tái sanh của những tín đồ đã sống, đã từ trần và đã mệnh chung trong các bộ lạc xung quanh như bộ lạc Kàsi Ca-thi, Kosala Câu-tát-la, Vajjì Bạt-kỳ, Malla Mạt-la, Ceti Chi-đề, Vansa Bạt-sa, Kuru Câu-lâu, Pancàla Ban-giá-la, Maccha Bà-sá-la Sùrasena Mậu-ba-tây-na - Vị này sanh ra tại chỗ này! Vị kia sanh ra tại chỗ kia. Hơn năm mươi vị tín đồ ở Nàdika đã từ trần, đã mệnh chung với năm hạ phần kiết sử đã được đoạn trừ, được hóa sanh thiên giới từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Hơn chín mươi vị ở Nàdikà, đã từ trần, đã mệnh chung, với ba kiết sử đã được đoạn trừ, với tham, sân, si được giảm thiểu, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ tận diệt khổ đau. Hơn năm trăm vị Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung, với ba kiết sử đã được diệt trừ, chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo, đạt đến Chánh Giác. 2. Các vị tín đồ ở Nàdikà được nghe "Thế Tôn thường hay tuyên bố về vấn đề tái sanh của những tín đồ đã từ trần và đã mệnh chung trong các bộ lạc xung quanh, như bộ lạc Kàsi, Kosala, Vajjì, Malla, Ceti, Vamsa, Kuru, Pancàla, Macchà, Sùrasena "Vị này sanh ra tại chỗ này. Vị kia sanh ra tại chỗ kia. Hơn năm mươi vị tín đồ ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với năm hạ phần kiết sử đã được đoạn trừ, được hóa sanh Thiên giới từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Hơn chín mươi vị ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được đoạn trừ, với tham, sân, si được giảm thiểu, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau. Hơn năm trăm vị ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được đoạn trừ, chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo, đạt đến Chánh Giác". Các vị tín đồ ở Nàdikà được nghe Thế Tôn hỏi đáp như vậy, lấy làm hoan hỷ, tín thọ, an lạc. 3. Tôn giả Ananda được nghe "Thế Tôn thường hay tuyên bố về vấn đề tái sanh của những tín đồ đã từ trần, đã mệnh chung trong các bộ lạc xung quanh, như bộ lạc Kàsi, Kosala, Vajjì, mallà, Ceti, Vamsa, Kuru, Pancàla, Macchà, Sùrasena "Vị này sanh ra tại chỗ này, vị kia sanh ra tại chỗ kia. Hơn 50 vị tín đồ Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với năm hạ phần kiết sử đã được đoạn trừ, được hóa sanh thiên giới từ đó nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Hơn chín mươi vị ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được đoạn trừ, với tham, sân, si được giảm thiểu, chứng quả Nhất lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau. Hơn năm trăm vị ở Nãdikã đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được diệt trừ, chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo, đạt đến Chánh Giác". Các vị tín đồ ở Nãdikã được nghe Thế Tôn hỏi đáp như vậy lấy làm hoan hỷ, tín thọ, an lạc". 4. Rồi tôn giả Ananda suy nghĩ "Nhưng ở tại Magadha Ma-kiệt-đà, có nhiều tín đồ đã tu hành lâu ngày và đã từ trần, mệnh chung, nhiều đến nỗi người ta tưởng hai xứ Anga Ương-già và Magadha đều trống không vì số tín đồ từ trần mệnh chung. Những vị này tin tưởng Phật, tin tưởng Pháp và tin tưởng Tăng, và giới luật đầy đủ. Nhưng Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và sự mệnh chung của họ. Lành thay nếu gợi được một câu trả lời về họ, nhờ vậy nhiều người sẽ khởi lòng tin, và từ đó được sanh lên thiện giới. Lại có vua Seniya Bimbisàra Tư-ni-du Tần-bà-sa xứ Magadha sống như Pháp, dùng Chánh pháp trị nước, có lòng thương tưởng các vị Bà-la-môn, Gia chủ, dân chúng thị thành và dân chúng thôn quê. Vua này được dân chúng xưng tán như sau "Vị vua sống như pháp, dùng chánh pháp trị nước, đã làm cho chúng ta sung sướng, vị này mệnh chung. Chúng ta đã sống thật hạnh phúc dưới thời vua sống như Pháp và dùng Chánh pháp trị nước này. Vị vua này cũng tin tưởng Phật, tin tưởng Pháp, tin tưởng Tăng và giới luật đầy đủ". Và dân chúng cũng nói "Cho đến khi mệnh chung, vua Seniya Bimbisàra xứ Magadha luôn luôn tán dương Thế Tôn". Nhưng Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và mệnh chung của vị vua này. Lành thay, nếu gợi được câu trả lời về vị vua này, nhờ vậy nhiều người sẽ khởi lòng tin và từ đó được sanh lên thiên giới. Lại nữa Thế Tôn chứng quả Bồ-đề tại Magadha. Thế Tôn đã chứng quả Bồ-đề tại Magadha. Thế Tôn đã chứng Bồ đề ở Magadha tại Magadha thì sao Ngài lại không nói đến về sự từ trần và mệnh chung của các tín đồ ở Magadha? Nếu Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và mệnh chung của các tín đồ ở Magadha thời các vị này sẽ đau buồn và nếu các vị này đau buồn thời sao Thế Tôn có thể không trả lời được?". 5. Sau khi đã suy nghĩ một mình, yên lặng, vì các tín đồ ở Magadha, tôn giả Ananda sáng hôm sau thức dậy đến tại chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn - Bạch Thế Tôn con có nghe Thế Tôn thường hay tuyên bố về vấn đề tái sanh của những tín đồ đã từ trần, đã mệnh chung trong các bộ lạc xung quanh, như bộ lạc Kàsi, Kosala, Vajjì, Malla, Ceit, Vamsa, Kuru, Pancàla, Macchà, Sùrasena "Vị này sanh ra tại chỗ này, vị kia sanh ra tại chỗ kia. Hơn năm mươi vị tín đồ ở Nàdikà đã mệnh chung với năm hạ phần kiết sử đã được nhập Niết-bàn không còn trở lại đời này nữa. Hơn chín mươi vị ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được đoạn trừ, với tham, sân, si được giảm thiểu, chứng quả Nhất Lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau. Hơn năm trăm vị ở Nàdikà đã từ trần, đã mệnh chung với ba kiết sử đã được đoạn trừ, chứng quả Dự lưu, nhất định không đọa ác đạo, đạt đến Chánh Giác". Các vị tín đồ ở Nàdikà được nghe Thế Tôn hỏi đáp như vậy lấy làm hoan hỷ, tín thọ, an lạc. 6. Bạch Thế Tôn, nhưng ở tại Magadha có nhiều tín đồ này tu hành lâu ngày và đã từ trần, mệnh chung, nhiều đến nỗi người ta tưởng hai xứ Anga và Magadha đều trống không vì số tín đồ từ trần mệnh chung. Những vị này tin tưởng Phật, tin tưởng Pháp, tin tưởng Tăng và giới luật đầy đủ. Nhưng Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và mệnh chung của họ. Lành thay nếu gợi được một câu trả lời về họ, và như vậy nhiều người sẽ khơi lòng tin, và từ đó được sanh lên Thiên giới. Bạch Thế Tôn, lại có vua Seniya Bimbisàra xứ Magadha, sống như Pháp, dùng Chánh pháp trị nước, có lòng thương tưởng các vị Bà-la-môn, Gia chủ, dân chúng thị thành và dân chúng thôn quê. Vua này được dân chúng xưng tán như sau "Vị vua sống như Pháp, và dùng Chánh pháp cai trị nước này. Vị Vua này cũng tin tưởng Phật, tin tưởng Pháp, tin tưởng Tăng và giới luật đầy đủ". Và dân chúng cũng nói "Cho đến khi mệnh chung, vua Seniya Bimbisàra xứ Magadha luôn luôn tán dương Thế Tôn". Nhưng Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và mệnh chung của vị vua này. Lành thay nếu gợi được câu trả lời về vị vua này, nhờ vậy nhiều người sẽ khởi lòng tin, và từ đó được sanh lên thiên giới. Bạch Thế Tôn, lại nữa Thế Tôn đã chứng quả Bồ-đề ở Magadha. Thế Tôn đã chứng quả Bồ đề ở Magadha, thời sao Ngài không nói về sự từ trần và mệnh chung của các tín đồ ở Magadha. Nếu Thế Tôn không nói gì về sự từ trần và mệnh chung của các tín đồ ở Magadha, thời các vị này sẽ đau buồn, và nếu các vị này đau buồn thời sao Thế Tôn có thể không thể trả lời được! Tôn giả Ananda, vì các tín đồ ở Magadha, sau khi đã trình lên trước Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, từ tạ ra đi. 7. Sau khi tôn giả Ananda đi ra không bao lâu, Thế Tôn liền đắp y vào buổi sáng, tay cầm y bát, đi vào Nàdikà để khất thực. Khi khất thực ở Nàdikà xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực về và rửa chân, Ngài vào ngôi nhà bằng gạch, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, suy nghĩ, tư duy chú lực toàn tâm suy tưởng đến các tín đồ ở Magadha "Ta sẽ tìm ra chỗ thọ sanh của họ, vận mạng của họ. Các Hiền nhân này thọ sanh ở đâu, vận mạng như thế nào?" Thế Tôn thấy được chỗ thọ sanh và vận mạng của các Hiền nhân tín đồ ở xứ Magadha này. Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, sau khi tịnh niệm, bước ra khỏi ngôi nhà bằng gạch, rồi ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, dưới bóng ngôi nhà. 8. Rồi Tôn giả Ananda đến tại chỗ Thế Tôn ở, lúc đến xong, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn - Bạch Thế Tôn, Thế Tôn ngó thật là an tịnh; diện sắc của Thế Tôn như là sáng chói nhờ các căn thật sự thanh tịnh. Bạch Thế Tôn Thế Tôn hôm nay an trú có được hoan hỷ không? 9. - Này Ananda, sau khi Ngươi, vì các tín đồ ở Magadha đã nói trước mặt Ta như vậy và đứng dậy ra về, Ta đi khất thực ở Nàdikà xong, sau bữa ăn, khi đi khất thực về và rửa chân, Ta vào ngôi nhà bằng gạch, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, suy nghĩ tư duy, chú lực toàn tâm suy tưởng đến các tín đồ ở Magadha "Ta sẽ tìm ra chỗ thọ sanh của họ, vận mạng của họ. Các vị Hiền nhân này thọ sanh ở đâu, vận mạng như thế nào?" Rồi Ta thấy được chỗ thọ sanh và vận mạng của các Hiền nhân tín đồ ở xứ Magadha này. Này Ananda, lúc bấy giờ một vị Dạ-xoa Yakkha ẩn mình lớn tiếng nói rằng "Bạch Thế Tôn, con tên là Janavasabha. Bạch Thiện Thệ, con là Janavasabha". Này Ananda, Ngươi từ trước đã từng được nghe ai tên là Janavasabha Xà-ni-sa chưa? - Bạch Thế Tôn, còn từ trước chưa từng được nghe ai tên Janavasabha. Bạch Thế Tôn, khi con nghe tên Janavasabha, con có cảm giác râu tóc bị dựng ngược, Bạch Thế Tôn, con tự nghĩ "Vị Dạ-xoa này không phải là hạng tầm thường, vì đã mang tên Janavasabha". 10. - Này Ananda, khi những lời ấy được nói xong, vị Dạ-xoa ấy hiện ra trước mặt Ta, nhan sắc thật phi thường và lần thứ hai, vị ấy nói "- Bạch Thế Tôn, con là Bimbisàra! Bạch Thế Tôn, con là Bimbisàra! Bạch Thế Tôn, nay là lần thứ bảy con được sanh vào giòng họ vua Vessavana Tỳ-sa-môn Thiên vương. Con chết đi trong địa vị làm vua ở nhơn gian, nay được sanh trên thiên giới, làm bậc phi nhân. Từ đây đến bảy lần Từ kia đến bảy lần Mười bốn lần tái sanh. Như vậy con biết được, ời quá khứ của con. Bạch Thế Tôn, từ lâu con không còn đọa lạc vào ác thú vì con đã hiểu được ác thú, và nay con muốn trở thành bậc Nhất lai. "- Thật hy hữu thay, Hiền giả Dạ-xoa Janavasabha! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả Dạ-xoa Janavasabha đã nói với ta 'Bạch Thế Tôn, từ lâu con không còn đọa lạc vào ác thú vì con đã hiểu được ác thú, và nay con muốn trở thành bậc Nhất lai.' Do nguyên nhân gì, Hiền giả Dạ-xoa Janavasabha tự biết mình đã đạt được địa vị cao thượng, thù thắng như vậy?" 11- "Bạch Thế Tôn, không gì khác ngoài giáo lý của Ngài! Từ khi con nhất hướng quy y và tín ngưỡng Thế Tôn, từ khi ấy con không còn đọa lạc vào ác thú, vì con đã hiểu được ác thú, và nay con muốn trở thành bậc Nhất lai. Bạch Thế Tôn, con được vua Vessavana Tỳ-sa-môn Thiên vương nhờ con đi đến vua Virùlhaka Tăng Trưởng Thiên vương có chút công việc, giữa đường con thấy Thế Tôn vào ngôi nhà bằng gạch suy nghĩ tư duy, chú lực toàn tâm suy tưởng đến các tín đồ ở Magadha "Ta sẽ tìm ra chỗ thọ sanh của họ, vận mạng của họ. Các Hiền nhân này thọ sanh ở đâu, vận mạng thế nào? "Bạch Thế Tôn! Không thể kỳ diệu sao được khi con đối mặt tự thân nghe từ miệng vua Vessavana nói với hội chúng của mình, các Hiền nhân này thọ sanh ở đâu, vận mệnh như thế nào? Bạch Thế Tôn! Ta sẽ đề cập vấn đề với Thế Tôn!" Bạch Thế Tôn, đó là hai nguyên nhân khiến con đến yết kiến Thế Tôn! 12. "Bạch Thế Tôn, trong những ngày xưa, những ngày xa xưa, nhân đêm trăng rằm Bố-tát Uposatha trong tháng nhập an cư mùa mưa, toàn thể chư Thiên ở cõi Tàvatimsà Tam thập tam thiên ngồi họp hội tại Thiện Pháp đường Sudhamma. Xung quanh có ại Thiên chúng ngồi khắp mọi phía, tại bốn phương hướng có bốn vị đại vương ngồi. ại vương Dhatarattha Trì Quốc Thiên vương vua ở phương ông, ngồi xây mặt hướng Tây, trước mặt Thiên chúng. ại vương Virùlhaka Tăng Trưởng Thiên vương, vua ở phương Nam ngồi xây mặt hướng Bắc, trước mặt Thiên chúng. ại vương Virùpakkha Quảng Mục Thiên vương vua ở phương Tây, ngồi xây mặt hướng ông, trước mặt Thiên chúng. ại vương Vessavana Tỳ-sa-môn Thiên vương, vua ở phương Bắc, ngồi xây mặt hướng Nam, trước mặt Thiên chúng. Bạch Thế Tôn, khi nào toàn thể chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường xung quanh có ại thiên chúng ngồi khắp mọi phía, và tại bốn phương hướng có bốn vị đại vương ngồi, như vậy là thứ tự chỗ ngồi của những vị này, rồi đến chỗ ngồi của chúng con. Bạch Thế Tôn, chư Thiên nào trước sống Phạm hạnh theo Thế Tôn và nay nếu sanh lên cõi Tam thập tam thiên, những vị này thắng xa chư Thiên khác về thân sắc và danh tiếng. Bạch Thế Tôn chư Thiên ở Tam thập tam thiên hoan hỷ, tín thọ, hỷ lạc sanh "Thiên giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt". 13. "Bạch Thế Tôn, lúc bấy giờ Thiện chủ ế thích Sakka Inda thấy chư thiên ở Tam thập tam thiên hoan hỷ, liền tùy hỷ nói lên bài kệ như sau Chư Tam thập tam thiên, Cùng ế-thích hoan hỷ, ảnh lễ bậc Như Lai, Cùng Chánh pháp vi diệu. Thấy Thiên chúng tân sanh, Quang sắc thật thù thắng, Các vị sống Phạm hạnh, Nay sanh tại cõi này. Họ thắng về quang sắc, Thọ mạng và danh xưng, ệ tử bậc ại Tuệ, Thù thắng sanh cõi này. Chư Tam thập tam thiên, Cùng ế-thích hoan hỷ, ảnh lễ bậc Như Lai, Cùng Chánh pháp vi diệu. "Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên lại càng hoan hỷ, tín thọ, hỷ lạc sanh hơn nữa và nói "Thiện giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt". 14. "Bạch Thế Tôn, rồi với mục đích gì chư Thiên ở Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường, các vị này suy tư thảo luận về mục đích ấy. Và tùy thuộc về mục đích ấy, bốn vị đại vương được thuyết giảng. Theo mục đích ấy, bốn vị đại vương được khuyến giáo, bốn vị này đều đứng một bên chỗ ngồi của mình. Các đại vương chấp nhận Lời giảng dạy khuyến giáo. Thanh thoát và an tịnh, ứng bên chỗ mình ngồi. 15. "Bạch Thế Tôn, rồi từ phương Bắc, một ánh sáng vi diệu khởi lên, một hào quang hiện ra, thắng xa oai lực của chư Thiên. Bạch Thế Tôn rồi Thiên chủ Sakka nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên "Này các Thiện hữu, theo các hiện tượng được thấy, ánh sáng khởi lên, hào quang hiện ra như vậy báo hiệu Phạm thiên sẽ xuất hiện. Vì hiện tượng báo hiệu Phạm thiên xuất hiện là ánh sáng khởi lên và hào quang hiện ra". Theo hiện tượng được thấy, Phạm thiên sẽ xuất hiện. Hiện tượng đấng Phạm thiên, Là hào quang vi diệu. 16. "Bạch Thế Tôn, rồi chư Thiên ở Tam thập tam thiên ngồi xuống trên ghế của mình và nói "Chúng tôi sẽ tìm hiểu hậu quả của hào quang này là thế nào sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy". "Cũng vậy, bốn vị đại vương ngồi xuống trên ghế ngồi của mình và nói "Chúng ta sẽ tìm hiểu hậu quả của hào quang này là thế nào sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy". Sau khi nghe vậy, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đều đồng một lòng một ý "Chúng ta sẽ tìm hiểu hậu quả của hào quang này là thế nào, sau khi được biết, chúng ta sẽ đi gặp vị ấy". 17. "Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumãra Thường ồng hình Phạm thiên xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, ngài xuất hiện với một hóa tướng thô xấu. Bạch Thế Tôn, vì khi Phạm thiên tự nhiên hiện hóa, sắc tướng không đủ thù thắng để chư Thiên ở Tam thập tam thiên khâm phục. Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, vị này thắng xa chư Thiên khác về sắc tướng và danh xưng. Bạch Thế Tôn, như một hình tượng bằng vàng chói sáng hơn thân hình con người, cũng vậy, bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tham thiên, vị này thắng xa chư Thiên khác về sắc tướng và danh xưng. Bạch Thế Tôn, như một hình tượng bằng vàng chói sáng hơn thân hình con người, cũng vậy bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra hiện ra trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, vị này thắng xa chư Thiên khác về sắc tướng và danh xưng. Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, không một vị Thiên nào trong chúng này đảnh lễ, đứng dậy hoặc mời vị Phạm thiên ngồi. Tất cả đều yên lặng, chấp tay, không ngồi trên chỗ ngồi của mình và nghĩ "Này, nếu Phạm thiên Sanamkumàra muốn gì với vị Thiên nào, thời hãy ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên ấy". Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên nào, vị Thiên ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ. Bạch Thế Tôn, như vị vua Sát-đế-lỵ vừa mới làm lễ quán đảnh và lên vương vị, vị ấy sẽ vô cùng sảng khoái, vô cùng hoan hỷ. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra Thường ồng hình Phạm thiên ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên nào, vị Thiên ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ. 18. "Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra xuất hiện với hình tượng thô xấu, hiện thành một đồng tử tên là Pancasikha Ngũ Kế trước mặt chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Bay bổng lên trời, vị này ngồi kiết-già giữa hư không. Bạch Thế Tôn, như một vị lực sĩ ngồi kiết-già trên một chỗ ngồi được trải bằng phẳng hay trên một mặt đất thăng bằng, cũng vậy bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra bay bổng trên trời, ngồi kiết-già trên hư không, thấy được sự an tịnh của chư Thiên ở Tam thập tam thiên liền nói lên sự hoan hỷ của mình bằng bài kệ sau đây Chư Tam thập tam thiên Cùng ế-thích hoan hỷ, ảnh lễ bậc Như Lai, Cùng Chánh pháp vi diệu. Thấy Thiên chúng tân sanh Quang sắc thật thù thắng, Các vị sống Phạm hạnh Hay sanh tại cõi này. Chúng thắng về quang sắc Thọ mạng và danh xưng, ệ tử bậc ại Tuệ, Thù thắng sanh cõi này. Chư Tam thập tam thiên Cùng ế-thích hoan hỷ, ảnh lễ bậc Như Lai Cùng Chánh pháp vi diệu. 19. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung lời nói của Phạm thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn, tiếng nói của Phạm thiên Sanamkumàra có tám đặc điểm sau đây lưu loát, dễ hiểu, dịu ngọt, nghe rõ ràng, sung mãn, phân minh, thâm sâu và vang động. Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Sanamkumàra giải thích cho hội chúng với tiếng nói của mình, tiếng nói không vượt ra khỏi đại chúng. Bạch Thế Tôn, một tiếng nói có tám đặc điểm như vậy gọi là Phạm âm. 20. "Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra, tự hiện hóa ba mươi hóa thân, mỗi thân ngồi kiết già trên mỗi chỗ ngồi của chư Thiên ở Tam thập tam thiên và nói với chư Thiên, này như sau "- Này Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, Quý vị nghĩ thế nào? Thế Tôn phục vụ cho hạnh phúc chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Chư Thiện hữu, những ai quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng và giữ trọn giới luật, những vị này khi thân hoại mệnh chung, một số được sanh lên Thiên chúng Parinimiitta - Vasavati Tha Hóa Tự tại thiên, một số được sanh lên Thiên chúng Nimmànaratì Hóa Lạc thiên; một số được sanh lên Thiên chúng Tusità âu-suất thiên, một số được sanh lên Thiên chúng Yàmà Dạ-ma-thiên, một số được sanh lên Thiên chúng Tà-vatimsà Tam thập tam thiên, một số được sanh lên Thiên chúng Catumàràjikà Tứ Thiên vương thiên, những ai phải điền vào cho đủ số hạ phẩm nhất được sanh vào chúng Gandhabba Càn-thát-bà. 21. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn, giọng nói của Phạm thiên Sanamkumàra về vấn đề này được nói một cách khiến mỗi vị Thiên nghĩ rằng "Vị ngồi trên chỗ ngồi của ta, chỉ vị ấy nói mà thôi". Chỉ một Phạm thiên nói, Mọi hóa thân đều nói, Chỉ một vị im lặng, Tất cả đều im lặng. Chư Tam thập tam thiên, Cùng ế-thích nghĩ rằng Chỉ vị ngồi chỗ ta, Chỉ vị ấy riêng nói. 22. "Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra thâu nhiếp tất cả thân thành một thân, sau khi thâu nhiếp, liền ngồi trên chỗ ngồi của Thiên chủ Sakka và nói với Thiên chúng ở Tam thập tam thiên "- Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, Quý vị nghĩ thế nào? Bốn pháp thần túc đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác, khéo léo giải thích để thần thông được sung mãn, để thần thông được thuần thục, để thần thông được thi thiết. Thế nào là bốn? Ở đây, vị Tỷ-kheo tu tập thần túc, câu hữu dục, thiền định tinh cần hành... tinh tấn thiền định... tâm thiền định... tu tập thần túc, câu hữu với tư duy thiền định, tinh cần hành. Bốn pháp thần túc này đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác khéo léo giải thích để thần thông được sung mãn, để thần thông được thuần thục, để thần thông được thi thiết. Này các Thiện hữu, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong quá khứ đã thưởng thức thần túc thông dưới một hay nhiều hình thức, tất cả đều tu tập và phát triển thần túc này. Này các Thiện hữu, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong tương lai sẽ thưởng thức thần túc thông dưới một hay nhiều hình thức, tất cả đều sẽ tu tập và phát triển bốn pháp thần túc này. Này các Thiện hữu, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong hiện tại thưởng thức thần túc thông dưới một hay nhiều hình thức, tất cả đều tu tập và phát triển bốn pháp thần túc này. Này chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, Quý vị có thấy ở nơi tôi thần lực như vậy không? "- Có như vậy, Phạm thiên! "- Chư Thiện hữu, tôi nhờ tu tập và phát triển bốn thần túc này mà nay thành tựu đại thần lực như vậy, đại uy đức như vậy. 23. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn, sau khi nói xong, Phạm thiên Sanamkumàra nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên "- Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, quý vị nghĩ thế nào? Ba con đường tắt hướng đến an lạc đã được Thế Tôn bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ. Thế nào là ba? "Chư Thiện hữu, ở đây có người thân cận dục lạc, thân cận bất thiện pháp. Sau một thời gian, vị nào được nghe Thánh pháp, như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và tùy pháp. Và khi nghe được Thánh pháp, như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và tùy pháp vị này sống không thân cận dục lạc, không thân cận bất thiện pháp. Nhờ sống không thân cận dục lạc, không thân cận bất thiện pháp, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc, hoan hỷ khởi lên. Chư Thiện hữu, như từ thoải mái, hỷ duyệt sanh, cũng vậy, Chư thiện hữu nhờ sống không thân cận dục lạc, không thân cận bất thiện pháp, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc, hoan hỷ khởi lên. Chư Thiện hữu, đó là con đường tắt thứ nhất hướng đến an lạc đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ. 24. "Chư Thiện hữu, lại nữa ở đây có người thân hành thô lậu, chưa được an tịnh, khẩu hành thô lậu... ý hành thô lậu chưa được an tịnh, sau một thời gian vị này được nghe Thánh pháp, như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và tùy pháp. Sau khi được nghe Thánh pháp, thân hành thô lậu của vị này được an tịnh, khẩu hành thô lậu của vị này... ý hành thô lậu của vị này được an tịnh, khẩu hành... ý hành thô lậu của vị này được an tịnh, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc, hoan hỷ khởi lên. Chư Thiện hữu, nhờ từ thoải mái, hỷ duyệt sanh, cũng vậy chư Thiện hữu, nhờ thân hành thô lậu của vị này được an tịnh, khẩu hành... ý hành thô lậu của vị này được an tịnh, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc, hoan hỷ khởi lên. Chư Thiện hữu, đó là con đường tắt thứ hai hướng đến an lạc đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ. 25. "Chư Thiện hữu, lại nữa ở đây có người không như thật biết "ây là thiện", không như thật biết "ây là bất thiện", không như thật biết "ây là có tội", "ây là không tội", "đây là hạ liệt", "đây là cao thượng", "đây là đen trắng đồng đều". Sau một thời gian, vị này được nghe Thánh pháp, như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và tùy pháp. Sau khi được nghe Thánh pháp, như lý tác ý, chứng đắc Chánh pháp và tùy pháp, vị này như thật biết "ây là thiện", như thật biết "ây là bất thiện", như thật biết "ây là có tội", "đây là không tội", "đây cần phải thuận theo", "đây cần phải né tránh", "đây là hạ liệt", "đây là cao thượng", "đây là đen trắng đồng đều". Nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, vô minh của vị này được trừ diệt, minh được sanh khởi. Vị này nhờ vô minh được trừ diệt và minh sanh khởi, an lạc khởi lên, và hơn cả an lạc, hoan hỷ khởi lên. Chư Thiện hữu, đó là con đường tắt thứ ba hướng đến an lạc, đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ. "Chư Thiện hữu, đó là ba con đường tắt hướng đến an lạc đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ. 26. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung câu chuyện Phạm thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn, sau khi nói xong, Phạm thiên Sanamkumàra nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên "- Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, Quý vị nghĩ thế nào? Bốn Niệm xứ hướng đến chơn thiện đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ. Thế nào là bốn? Chư Thiện hữu, ở đây vị Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Nhờ sống quán thân trên nội thân vị này được chánh định và chánh an tịnh. Nhờ tâm chánh định và chánh an tịnh ở nơi đây, tri kiến được sanh khởi đối với các thân khác ngoài tự thân. Vị Tỷ-kheo sống quán các cảm thọ từ nội thân... quán tâm... quán pháp đối với các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Nhờ sống quán pháp đối với các pháp, tâm được chánh định và chánh an tịnh. Nhờ tâm chánh định và chánh an tịnh ở nơi đây, tri kiến được sanh khởi, đối với các pháp khác. "Chư Thiện hữu, bốn Niệm xứ này hướng đến chơn thiện đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ". 27. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn, sau khi nói xong, Phạm thiên Sanamkumàra nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên "- Chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên, Quý vị nghĩ thế nào về bảy pháp ịnh tư lương Samàdhi-parikkhàrà để tu hành chánh định, để kiện toàn thiền định, đã được Thế Tôn, bậc Trí Giả, bậc Kiến Giả, bậc Ứng Cúng, Chánh ẳng Giác chứng ngộ? Thế nào là bảy? Như chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Chư Thiện hữu, nhứt cảnh tánh của tâm do bảy chi này sửa soạn, được gọi là thánh chánh định cùng với các y chỉ và dùng với các tư lương. Chư Thiện hữu, chánh tư duy vừa đủ để chánh tri kiến sanh khởi, chánh ngữ vừa đủ để chánh tư duy sanh khởi, chánh nghiệp vừa đủ để chánh ngữ sanh khởi, chánh mạng vừa đủ để chánh nghiệp sanh khởi, chánh tinh tấn vừa đủ để chánh mạng sanh khởi, chánh niệm vừa đủ để chánh tinh tấn sanh khởi, chánh định vừa đủ để chánh niệm sanh khởi, chánh trí vừa đủ để chánh định sanh khởi, chánh giải thoát vừa đủ để chánh trí sanh khởi. "Chư Thiện hữu, nếu có người nói lời chánh ngữ sau đây "Chánh pháp đã được Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, pháp ấy có kết quả ngay trong hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, hướng dẫn đến đích, được những người có trí tự mình giác hiểu, cửa bất tử được rộng mở". Nói như vậy là chánh ngữ. Chư Thiện hữu, vì chánh pháp thật sự đã được Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, pháp ấy có kết quả ngay trong hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, hướng dẫn đến đích, được những người có trí tự mình giác hiểu, cửa bất tử được rộng mở. "Chư Thiện hữu, những ai tin tưởng Phật không có thối chuyển, tin tưởng Pháp không có thối chuyển, tin tưởng Tăng không có thối chuyển, đầy đủ giới hạnh khiến bậc Thánh hoan hỷ, tất cả những vị được hóa sanh được Chánh pháp hướng dẫn, hơn hai trăm bốn mươi vạn vị cư sĩ ở Magadha đã từ trần mệnh chung, những vị này đều diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, không còn đọa vào ác thú, chắc chắn đạt đến chánh giác. Lại có những vị Nhất lai Với hạng chúng sanh này Ước lượng phần công đức. Không thể ước lượng được Sợ phạm tội vọng ngữ. 28. "Bạch Thế Tôn, đó là nội dung câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra. Bạch Thế Tôn, được biết nội dung câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra, đại vương Vessavana khởi lên suy tư sau đây "Chư Thiện hữu, thật là kỳ diệu! Chư Thiện hữu, thật là hy hữu, được có một ại sư thù thắng như vậy, một pháp thoại thù thắng như vậy, được một con đường đặc biệt như vậy". "Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanamkumàra tự tâm mình biết được tâm trí của đại vương Vessavana như vậy, liền thưa với đại vương "- ại vương Vessavana nghĩ như thế nào? Trong thời quá khứ đã có một ại sư thù thắng như vậy, một pháp thoại thù thắng như vậy, đã được trình bày một con đường đặc biệt như vậy... Trong thời gian tương lai, sẽ có một ại sư thù thắng như vậy, một pháp thoại thù thắng như vậy, sẽ được trình bày một con đường đặc biệt như vậy". 29. ó là nội dung câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên. ại vương Vessavana sau khi tự thân nghe, tự thân chấp nhận câu chuyện của Phạm thiên Sanamkumàra nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên, liền nói với chúng của mình. Dạ-xoa Janavasabha sau khi tự thân nghe, tự thân chấp nhận câu chuyện của đại vương Vessavana nói với hội chúng, liền bạch lại với Thế Tôn. Thế Tôn sau khi tự thân nghe, tự thân chấp nhận câu chuyện của Dạ-xoa Janavasabha, và sau khi tự mình chứng tri liền nói lại cho tôn giả Ananda. Tôn giả Ananda sau khi tự thân nghe, tự thân chấp nhận câu chuyện của Thế Tôn liền nói lại cho chúng Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ và nữ cư sĩ. Phạm hạnh này được hưng thịnh, được quảng bá, được truyền rộng cho đại chúng càng ngày càng đông, vì được khéo léo trình bày cho loài thành cám ơn anh HDC và nhóm Phật tử VH đã có thiện tâm gửi tặng ấn bản điện tử. Bình Anson hiệu đính, dựa theo bản Anh ngữ "The Long Discourses of the Buddha", Maurice Walshe dịch, 1987. Các Ân Tứ Thuộc Linh 1Côrinhtô 121–11 Trong đoạn nầy sứ đồ Phaolô nói về các ân tứ thuộc linh, là những ơn mà tín hữu ở Côrinhtô được ban cho dư dật 17. Ông nói về Đấng ban cho, là nguồn của các ân tứ ấy, và mục đích của chúng là để mở rộng Vương quốc của Đức Chúa Trời và gây dựng Hội Thánh. Nhưng các ân tứ ấy bị lạm dụng hoặc sử dụng cách sai trật tại Hội Thánh Côrinhtô. Điều đầu tiên mà ông xin độc giả của thư nầy cần hiểu là họ không nên giữ tình trạng dốt nát về các ân tứ thuộc linh. Nghĩa là phải hiểu biết về các ân tứ thiêng liêng, công dụng của các ân tứ ấy, mục đích của Chúa khi Ngài ban ân tứ cho Hội Thánh là gì, và sử dụng như thế nào. Phaolô đã dùng phần thư nầy được sắp xếp thành 3 đoạn 12, 13 và 14 để bàn về vấn đề ân tứ. Vì thế, mọi điều ông viết trong phần thư ấy có liên hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời, để độc giả có thể hiểu toàn bộ vấn đề ân tứ. Thái độ thờ ơ, không cần biết, là khinh thường các món quà yêu thương mà Đức Thánh Linh đã dành sẵn cho mọi con dân Ngài. Thái độ ấy chẳng khi nào được Chúa kể là vô tội. Nếu Kinh Thánh không nói gì đến các ân tứ siêu nhiên thì người ta còn có cớ bào chữa. Nhưng đã dốt nát lại còn chống đối các ân tứ thiêng liêng, thì điều đó chứng tỏ người chống đối không có mối liên hệ gì với Đấng ban ân tứ cho Hội Thánh, là lý do mà một số người bộc lộ ác cảm đối với Đức Thánh Linh, khi nghe nhắc tới Đấng dẫn dắt và bảo vệ Hội Thánh trong hơn hai ngàn năm qua. “Khi còn là người ngoại đạo, anh em biết mình đã bị lôi cuốn vào việc thờ lạy các hình tượng câm,” 2 là những thứ không có chút thực quyền nào, không thể ban cho người thờ lạy chúng các ân tứ siêu nhiên; đồng thời người thờ lạy hình tượng cũng không thể nào tiếp nhận ảnh hưởng từ Thánh Linh của Đức Chúa Giêxu. Sau khi đã trở thành con cái thật của Chúa, nếu có hiểu được tình trạng trước kia của mình như vậy, tín hữu mới có thể hiểu và biết rằng chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể ban cho họ các ân tứ siêu nhiên theo lời Ngài hứa. Ngoại trừ người Dothái, toàn nhân loại hoàn toàn xa lạ với giao ước của lời hứa. Nhưng bây giờ, mọi Cơ-đốc-nhân đều được đưa vô giao ước của lời hứa ấy; cho nên, phải có lòng biết ơn và đứng dậy thực hiện nhiệm vụ của mình bằng các ân tứ siêu nhiên mà Đức Thánh Linh theo ý tốt của Ngài ban cho từng người. Dothái giáo và dân ngoại bang thời ấy vẫn thường lộng ngôn xúc phạm Đức Chúa Giêxu. Vì thế Phaolô bày cho tín hữu Côrinhtô biết cách phân biệt ân tứ thật do Đức Thánh Linh ban xuống nơi người nhận 3. Thời ấy, vẫn có một số người Giuđa đi đó đây mạo Danh Chúa hành nghề trừ quỷ, cũng như người ngoại bang giả mạo được thần cảm. Phaolô nói rằng họ không thể hành xử bởi quyền phép của Thánh Linh Đức Chúa Trời vì khinh thường không xưng Đức Chúa Giêxu là Chúa. Cũng vậy, chỉ bởi Đức Thánh Linh, tín hữu mới có thể giữ vững đức tin và xưng Giêxu là Chúa khi phải đối diện với bắt bớ hoạn nạn. Dù trong Hội Thánh có nhiều ân tứ và nhiều công tác phục vụ khác nhau, nhưng đều đến từ một Chúa 4–6. Đức Thánh Linh biểu lộ chính Ngài khi tín hữu thực hiện các ân tứ thiêng liêng khác nhau vì lợi ích chung của Hội Thánh 7. Nghĩa là ân tứ không phải để người nhận phô diễn vinh dự được Chúa sử dụng hoặc địa vị của mình, nhưng để gây dựng Hội Thánh, rao truyền phúc âm và khiến đạo Chúa tấn tới. Đồng thời Ngài cũng ban nhiều ân tứ khác nhau cho nhiều người khác nhau và sử dụng họ cách riêng biệt hoặc phối hợp nhau nhằm mục tiêu có lợi nhất cho Hội Thánh. Lời khôn ngoan’ được hiểu theo vài cách khác nhau Hoặc là sự hiểu biết hay tri thức về các huyền nhiệm của phúc âm và khả năng để giải thích chúng, một sự hiểu biết chính xác về sự kiến tạo, bản chất, và các giáo lý của Cơ-đốc-giáo; hoặc là sự phát biểu những lời nói vô cùng sâu sắc như các châm ngôn của Salômôn. Người khác thì giới hạn lời khôn ngoan là những sự khải thị do các sứ đồ tiết lộ. Ngày nay, người ta giải thích lời khôn ngoan’ là lời nói được ban cho đúng lúc để giải toả một tình trạng khó khăn hoàn toàn bế tắc. Cũng có thể là lời nói được ban cho để đối đáp khi phải đối đầu với cường quyền thù nghịch với phúc âm; hoặc lời nói có khả năng làm câm miệng những lý lẽ chống đối đạo Chúa trong một cuộc tranh luận hay bắt bẻ Tin Lành 8. Lời tri thức’ cũng được giải thích theo vài cách hoặc là tri thức về những huyền nhiệm của Tin Lành được gói ghém trong các lời tiên tri và lịch sử của Cựu Ước; người khác thì cho rằng đó là tài khéo léo và tính sẵn sàng đưa ra những lời cố vấn đúng kịp thời cho các trường hợp khó khăn; ý kiến khác nữa cho rằng lời tri thức’ là một thứ ơn khải thị đặc biệt phơi bày các sự kín nhiệm trong lòng người, hoặc sự bày tỏ kịp thời sự thật trong các hoàn cảnh đặc biệt. Hai ý kiến chót vừa nêu thường được xác nhận bởi những kinh nghiệm trong thực tế của thời kỳ lịch sử hiện nay, khi Đức Thánh Linh thăm viếng và ban ân tứ đặc biệt cho một số người 8. Ân tứ đức tin’ khác với thứ đức tin vào Đức Chúa Giêxu là phúc âm của Đức Chúa Trời; nó là đức tin’ vào các phép lạ, hoặc lòng tin vào quyền năng và các lời hứa thiên thượng. Nhờ đức tin đó, tín hữu có thể tin cậy Đức Chúa Trời trong bất cứ trường hợp nguy cấp nào, thực hiện bổn phận phục vụ hay rao truyền chân lý bất kể hoàn cảnh khó khăn hay nguy nan. Ân tứ đức tin đòi hỏi phải có niềm tin căn bản vào sự thực hữu của Đức Chúa Trời và quyền phép của Ngài. Tình trạng dựa vào đức tin của người khác để giải quyết các nan đề của mình, sẽ không dẫn đến kinh nghiệm thực tế của ân tứ nầy. Ân tứ là một ơn ban, một món quà tặng, song nó sẽ chẳng có hiệu quả khi thiếu mất nền tảng của lòng tin ban đầu vào Đức Chúa Trời. Các ân tứ lời khôn ngoan’ và lời tri thức’ đều vận hành trên căn bản ân tứ đức tin’ siêu nhiên 9. Ân tứ chữa bệnh’ thuộc về loại ân tứ quyền năng, bởi sự đặt tay, xức dầu, hoặc ra lệnh bằng lời nói mà bệnh được dứt; nghĩa là không cần dùng đến thuốc men hay y khoa để chữa lành bệnh theo cách thông thường. Ân tứ chữa bệnh’ là ơn ban đặc biệt cho những người được Chúa chọn đặc biệt để chữa lành cách siêu nhiên những thứ bệnh và tật nguyền, mà y khoa của loài người đã bó tay; nó khác với uy quyền trên các bệnh tật thông thường mà mọi con dân Chúa đều có 9. Ân tứ làm phép lạ’ 10 thực hiện được những việc phi thường trong các tình huống đặc biệt như gọi người chết vì bệnh hay tai nạn sống lại Công vụ 940; 143; 209–12. Cũng có những phép lạ ngày nay vẫn diễn ra như thời các tiên tri trong Cựu Ước 2Vua 43–6, 39–41; 65–7. Ân tứ nói tiên tri’ là khả năng nói trước về những việc sẽ xảy ra, theo sát nghĩa của chữ tiên tri biết trước. một số ý kiến khác cho rằng nói tiên tri’ là khả năng giải nghĩa Kinh Thánh bởi ơn đặc biệt của Đức Thánh Linh. Những người không còn tin là quyền năng của Chúa vẫn thể hiện ngày nay thì cho rằng nói tiên tri’ là giảng lời Chúa, nghĩa là dùng lời Chúa để nói về những việc sẽ đến. Ân tứ phân biệt các thần’ cũng gọi là phân biệt các linh’ 10, là khả năng nhận ra các tiên tri thật hay giả, hoặc biết nhận ra các phẩm chất thật sự trong bất cứ người nào đang giữ chức vụ hay ứng cử vào chức vụ nào đó của Hội Thánh; hoặc là bởi ơn của Đức Thánh Linh khám phá ra những suy nghĩ, toan tính trong lòng người khác Công vụ 53. Ân tứ nói các thứ tiếng’ và ơn thông dịch các thứ tiếng’ 10 thường được gọi là nói tiếng lạ’ và thông giải tiếng lạ,’ là tiếng của Đức Thánh Linh cho nói, có thể là tiếng của một dân tộc nào đó, có thể là tiếng huyền nhiệm không ai hiểu được, hoặc tiếng nói của thiên sứ 131, hoặc một thứ tiếng mới. Còn thông dịch’ là khả năng chuyển thông điệp của tiếng lạ đã nói ra thành ngôn ngữ của những người đang dự nhóm hiểu được. Sự nói và thông dịch các thứ tiếng là năng lực siêu nhiên đến từ Đức Thánh Linh vào thời điểm ấy, không phải là khả năng do học mà được. “Các ân tứ ấy do cùng một Thánh Linh điều động và phân phối cho mỗi người theo ý Ngài” 11. Ân tứ có nghĩa là quà tặng. Ân tứ thuộc linh là quà tặng của Đức Thánh Linh. Đấng tặng quà có toàn quyền chọn lựa theo sự dò xét của Ngài về bề trong và năng lực quản lý của người được tặng. Được nhiều ân tứ hay ít đều do quyết định của Đấng biết rõ lòng người chúng ta. Rev. Dr. CTB NSGN -Trong nhiều cách hiểu khác nhau về cụm từ kinh điển phi Phật thuyết, thì cách hiểu, đó là những kinh điển không phải do chính Đức Phật tuyên thuyết, mà do những đệ tử có thẩm quyền của Ngài thuyết giảng, là nghĩa cơ bản được sử dụng trong bài viết này. Đã có nhiều hoài nghi xoay quanh về nguồn gốc, cũng như quá trình hình thành một vài bộ kinh Đại thừa, của nhiều nhà nghiên cứu Phật học. Cụ thể, đó là những quan điểm cho rằng, kinh điển Đại thừa được hình thành là do các vị Bồ-tát, hoặc do những luận sư có thẩm quyền trước thuật1. Và cũng từ đây, đã mở ra một nếp nghĩ không chính thức, khi cho rằng, chỉ có những kinh điển thuộc hệ Đại thừa, mới có những bản kinh không phải do chính Đức Phật tuyên thuyết. Đây là một nếp nghĩ chưa thấu đạt, tinh tường. Vì lẽ, khi khảo sát bốn bộ kinh Nikaya, chúng tôi đã phát hiện ra có khá nhiều kinh văn không phải do chính Đức Phật tuyên thuyết. Về số lượng kinh điển Từ kết quả khảo sát bước đầu cho thấy - Kinh Trường bộ có 6 kinh. Bao gồm kinh Subha, số 10; kinh Tệ-túc, số 23; kinh Tự hoan hỷ, số 28; kinh A-sá-nang-chi, số 32; kinh Phúng tụng, số 33 và kinh Thập thượng số 34. - Kinh Trung bộ có 31 kinh. Bao gồm kinh Không uế nhiễm, số 5; kinh Chánh tri kiến, số 9; kinh Tư lượng, số 15; kinh Mật hoàn, số 18; kinh Trạm xe, số 24; Đại kinh dụ dấu chân voi, số 28; Đại kinh Phương quảng, số 43; Tiểu kinh Phương quảng, số 44; kinh Hàng ma, số 50; kinh Bát thành, số 52; kinh Hữu học, số 53; kinh Gulissani, số 69; kinh Sandaka, số 76; kinh Ratthapala, số 82; kinh Madhura, số 84; kinh Bahitika, số 88; kinh Pháp trang nghiêm, số 89; kinh Bhrahmayu, số 91; kinh Ghotamukha, số 94; kinh Dhananjani, số 97; kinh Gopaka Moggallana, số 108; kinh Hành trì không nên hành trì, số 114; kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp, số 123; kinh Bạc Câu La, số 124; kinh A Na Luật, số 127; kinh Đại Ca Chiên Diên nhất dạ hiền giả, số 133; kinh Tổng thuyết và biệt thuyết, số 138; kinh Phân biệt về sự thật, số 141; kinh Giáo giới Cấp Cô Độc, số 143; kinh Giáo giới Channa, số 144; kinh Giáo giới Nandaka, số 146. - Kinh Tăng chi bộ, có 23 kinh. Bao gồm chương 2 pháp, phẩm Tâm thằng bằng, kinh Đất, phần 6; chương 3 pháp, phẩm Người, kinh Chứng thực với thân; chương 3 pháp, phẩm Ananda, kinh Tà mạng đệ tử; chương 3 pháp, phẩm Ananda, kinh Người họ Thích; chương 3 pháp, phẩm Ananda, kinh Vị lõa thể; chương 4 pháp, phẩm Các căn, kinh Thối đọa; chương 4 pháp, phẩm Các căn, kinh Tỳ-kheo-ni; chương 4 pháp, phẩm Đại hành, kinh Gắn liền cột chặt; chương 4 pháp, phẩm Tư tâm sở, kinh Kotthita; chương 4 pháp, phẩm Tư tâm sở, kinh Upavana; chương 4 pháp, kinh Niết-bàn; chương 4 pháp, Đại phẩm, kinh Các vị Sapuga; chương 5 pháp, phẩm Năm phần, kinh Giải thoát xứ; chương 6 pháp, phẩm Dhammika, kinh Mahacunda; chương 9 pháp, phẩm Chánh giác, kinh Tôn giả Nandaka; chương 9 pháp, phẩm Chánh giác, kinh Cần phải thân cận; chương 9 pháp, Đại phẩm, kinh Niết-bàn; chương 10 pháp, phẩm Lớn, kinh Những câu hỏi lớn 2; chương 10 pháp, phẩm Tâm của mình, kinh Tổn giảm; chương 10 pháp, phẩm Song đôi, kinh Tại Nalakapàna 1; chương 10 pháp, phẩm Trưởng lão, kinh Nói lên chánh trí; chương 10 pháp, phẩm Trưởng lão, kinh Khoe khoang; chương 10 pháp, phẩm Trưởng lão, kinh Câu hỏi về chánh trí. - Kinh Tương ưng bộ, có 16 kinh. Bao gồm tập 1, chương 1, Tương ưng chư thiên, phẩm Quần tiên, kinh Lòng tin; tập 1, chương 1, Tương ưng chư thiên, phẩm Quần tiên, kinh Tụ hội; tập 1, chương 1, Tương ưng chư thiên, phẩm Quần tiên, kinh Miếng đá vụn ; tập 1, chương 1, Tương ưng chư thiên, phẩm Quần tiên, kinh Con gái của Pajjunna; tập 1, chương 1, Tương ưng thiên tử, phẩm Các ngoại đạo, kinh Jantu; tập 1, chương 9, Tương ưng rừng, kinh Viễn ly; tập 1, chương 9, Tương ưng rừng, kinh Ananda; tập 1, chương 9, Tương ưng rừng, kinh Sen hồng hay sen trắng; tập 1, chương 10, Tương ưng Dạ-xoa, kinh Sukka; tập 3, chương 1, Tương ưng uẩn, phần a, Năm mươi kinh căn bản, phẩm Nakulapita, kinh Nakulapita; tập 3, chương 1, Tương ưng uẩn, phần a, Năm mươi kinh căn bản, phẩm Nakulapita, kinh Hàliddikàni; tập 3, chương 1, Tương ưng uẩn, phần e, phẩm Trưởng lão, kinh Khemaka; tập 4, chương 1, Tương ưng sáu xứ, phần g, phẩm Rắn độc, kinh Dục lậu; tập 4, chương một, Tương ưng sáu xứ, phần b, phần 2, Năm mươi kinh thứ hai, Phẩm thế giới dục công đức, kinh Lohicca; tập 4, chương 1, Tương ưng sáu xứ, phần b, phần 2, Năm mươi kinh thứ hai, phẩm Thế giới dục công đức, kinh Verahaccàni; tập 4, chương 4, Tương ưng Jambukhàdaka, kinh Nibbana. Như vậy, qua khảo sát sơ bộ, hiện có 76 kinh phi Phật thuyết trong bốn bộ Nikaya. Thực ra, số lượng kinh phi Phật thuyết trong bốn bộ Nikaya còn gấp nhiều lần như thế. Vì lẽ, do tính chất đặc thù và số lượng phong phú của hai bộ kinh Tăng chi và Tương ưng, nên chúng tôi chỉ khảo sát hai bộ kinh này mang tính chọn điểm, trên một số khu vực hạn định. Về tác giả, bối cảnh xuất hiện, tính chất và niên đại Thành phần tác giả của những kinh văn phi Phật thuyết rất phong phú, đa dạng, bao gồm các đại đệ tử của Đức Phật cho đến các vị Thiên, quốc vương và ngay cả hàng Bà-la-môn ngộ đạo. Có thể điểm qua một số tôn danh như Tôn giả Kumàra Kassapa2, tôn giả Sariputta3, Tôn giả Maha Moggallana4, Tôn giả Ananda5, Tôn giả Maha Kaccana6, Tôn giả Anuruddha7, Tôn giả Bakkula8, tôn giả Nandaka9, Tôn giả Ratthapala10, Tôn giả Udena11, Tỳ-kheo-ni Dhammadinna12, Tỳ-kheo-ni Sukka13, Tỳ-kheo-ni Kajangalà14 Đại vương Vessavana15, Vua Pasenadi16, Bà-la-môn Bhrahmayu17 và đông đảo chư Thiên18. Về bối cảnh xuất hiện những bài kinh do đệ tử Phật tuyên thuyết cũng rất phong phú. Thứ nhất, đôi khi Đức Phật bị đau lưng nên đã chỉ định các đệ tử thay Ngài thuyết giảng19. Thứ hai, có lúc vì thấy Như Lai không khỏe nên các đệ tử đã chủ động thay Ngài thuyết giảng cho người cầu pháp20. Thứ ba, các vị Thánh đệ tử trên bước đường du hóa, do yêu cầu của tha nhân nên đã tùy nghi thuyết giảng21. Thứ tư, Đức Phật chỉ dạy những điểm căn bản, vắn tắt, và sau đó có một vị Thánh đệ tử mở rộng ý nghĩa này ra22. Thứ năm, trong một số trường hợp đặc biệt, có những vị đệ tử tự thuật lại nguyên nhân mình đến với Đạo, hoặc tôn vinh Đức Phật, hoặc cống hiến những giải pháp nhằm hộ trì Tam bảo. Những sự kiện đó chuyên chở chất liệu phạm hạnh, đem đến mục tiêu giải thoát cho nhiều người, nên cũng được xác lập như những bản kinh23. Trong những trường hợp vừa nêu, có những bản kinh sau khi các đệ tử tuyên thuyết, thì được Đức Phật ấn chứng và đôi lúc không có được sự ấn chứng cần thiết này. Ở đây, có một đặc điểm dễ nhận thấy, đó là những bản kinh thuộc dạng này, phần lớn là sự trùng tuyên, hoặc mở rộng, giải nghĩa những giáo lý căn bản như Duyên sinh, Vô thường, Vô ngã, Tứ đế… mà Đức Phật đã giảng dạy trước đó. Đây là thuộc tính quan trọng của những bộ kinh này. Nói rõ hơn, mặc dù mang danh là những bộ kinh do đệ tử Đức Phật tuyên thuyết, thế nhưng phần lớn chỉ là sự quảng diễn những giáo nghĩa căn bản, mà Đức Phật là người đầu tiên đã phát kiến ra. Xét về thời điểm xuất hiện, thì phần lớn những kinh văn phi Phật thuyết ra đời trong khi Đức Phật còn tại thế. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, thì ít nhất có bốn bản kinh ra đời trong bối cảnh đặc biệt. Đó là những trường hợp, mặc dù Đức Phật đã nhập Niết-bàn, nhưng các đệ tử của Ngài vẫn còn độc lập thuyết kinh. Đó là bài kinh Subha, số 10, thuộc tập 1 trong kinh Trường bộ, do tôn giả Ananda tuyên thuyết. Ba bài kinh còn lại đều nằm trong kinh Trung bộ. Đó là kinh Madhura, số 84 do Tôn giả Maha Kaccana thuyết giảng, kinh Ghotamukha, số 94, do Tôn giả Udena thuyết giảng và cuối cùng là kinh Gopaka Moggallana, số 108 do Tôn giả Ananda thuyết giảng. Từ sự kiện này cho thấy, mặc dù Đức Phật đã diệt độ, nhưng các đệ tử của Ngài có đủ năng lực tuệ giác, vẫn có thẩm quyền thuyết giảng kinh điển. Theo chúng tôi, đây là một trong những cơ sở làm tiền đề, để các bộ kinh điển thuộc hệ Đại thừa xuất hiện về sau. Kết luận Từ khảo sát bước đầu cho thấy, kinh tạng Nikaya không chỉ lưu lại những bài kinh do chính Đức Phật tuyên thuyết, mà còn bao hàm nhiều bài kinh của những đệ tử của Ngài, hiện được trân trọng giữ gìn trong Kinh tạng. Mặc dù thể loại này chiếm một số lượng khá khiêm tốn như khảo sát đã chỉ ra, nhưng qua đó đã cho thấy, tạng kinh Nikaya cũng còn nhiều vấn đề cần phải khảo cứu, mà cụ thể là đối với những bản kinh không phải do chính Đức Phật tuyên thuyết. Trên một phương diện khác, cần phải thấy rằng, chân lý mà Đức Phật thân chứng không hẳn chỉ gói gọn trong Ba tạng kinh điển Nikaya. Chiêm nghiệm sâu thêm lời dạy của Đức Phật, khi Ngài so sánh những điều mà Ngài đã thắng tri thì nhiều vô số như lá trong rừng, còn những điều mà Ngài đã dạy thì ít ỏi như lá trong tay24. Ẩn dụ này đồng thời chuyên chở một thông điệp quan trọng, gián tiếp cho phép các vị Thánh đệ tử đầy đủ năng lực tuệ giác, có thể triển khai và chỉ bày chân lý. Từ bốn bài kinh do nhưng cao đệ của Đức Phật thuyết giảng sau khi Ngài viên tịch, được phát hiện từ việc khảo sát25, đã mở ra một hướng lý giải về những tồn nghi, xoay quanh những bộ kinh có niên đại xuất hiện khá muộn, trong dòng chảy của các kinh văn thuộc hệ phát triển, Đại thừa. Ở đây, mặc dù có những bản kinh xuất hiện sau khi Đức Phật nhập diệt, do các vị Thánh đệ tử tuyên thuyết, nhưng khoan vội quy kết cho rằng, nội dung của chúng trái ngược với tôn chỉ căn bản của Đức Thế Tôn. Với tinh thần đó, người học Phật cần có một thái độ tỉnh táo và cân nhắc, trong khi tiếp cận với tư liệu kinh văn của các truyền thống Phật giáo. Tin được kinh giáo là điều khó, thế nhưng tin một cách có chọn lọc, có thẩm sát, là tâm thế cần có của bất cứ ai khi dấn thân học Phật. Chú thích 1 Đó là trường hợp kinh Hoa nghiêm, tương truyền là do ngài Long Thọ trước thuật. 2 Kinh Trường bộ, kinh Tệ túc, số 23. 3 Kinh Trường bộ kinh Tự hoan hỷ, số 28, kinh Phúng tụng, số 33, kinh Thập thượng số 34. Ở Trung bộ kinh Không uế nhiễm, số 5; kinh Chánh tri kiến, số 9; kinh Trạm xe, số 24; Đại kinh dụ dấu chân voi, số 28; Đại kinh Phương quảng, số 43; kinh Gulisani, số 69; kinh Dhananjani, số 97; kinh Hành trì không nên hành trì, số 141; kinh Giáo giới Cấp Cô Độc, số 143; kinh Giáo giới Channa, số 144. 4 Kinh Trung bộ kinh Tư lượng, số 15, kinh Hàng ma, số 50. 5 Kinh Trường bộ kinh Subha, số 10. Ở Trung bộ kinh Bát thành, số 52; kinh Hữu học, số 53; kinh Sandaka, số 76; kinh Bahitika, số 88; kinh Golaka Moggallana, số 108; kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp, số 123. 6 Kinh Trung bộ kinh Mật hoàn, số 18; kinh Madhura, số 84; kinh Ca Chiên Diên nhất dạ hiền giả, số 133; kinh Tổng thuyết và biệt thuyết, số 138. 7 Kinh Trung bộ kinh A Na Luật, số 127. 8 Kinh Trung bộ kinh Bạc Câu La, số 124. 9 Kinh Trung bộ kinh Giáo giới Nadaka, số 146. 10 Kinh Trung bộ kinh Ratthapala, số 82 11 Kinh Trung bộ kinh Ghotamukha, số 94. 12 Kinh Trung bộ Tiểu kinh phương quảng, số 44. 13 Kinh Tương ưng, tập 1, chương 10, Tương ưng Dạ xoa, kinh Sukka. 14 Kinh Tăng chi, chương 10 pháp, phẩm Lớn, kinh Những câu hỏi lớn. 15 Kinh Trường bộ kinh A-sá-nang-chi, số 32. 16 Kinh Trung bộ kinh Pháp trang nghiêm, số 89. 17 Kinh Trung bộ kinh Bhrahmayu, số 91. 18 Kinh Tương ưng, tập 1, chương 1, Tương ưng chư Thiên, phẩm Quần tiên. 19 Đó là trường hợp được ghi lại trong bài kinh Phúng tụng, số 33, thuộc Trường bộ. Trường hợp khác, Đức Phật cũng bị đau lưng nên chỉ định Tôn giả Moggallana thuyết giảng thay Ngài. Trường hợp này xuất hiện trong bài kinh Hữu học, số 53, thuộc kinh Trung bộ. 20 Kinh Tăng chi, chương 3 pháp, phẩm Ananda, kinh Người họ Thích. 21 Kinh Trung Bộ, Tiểu kinh phương quảng, số 44. 22 Xem thêm, kinh Mật hoàn, số 18. 23 Xem thêm, kinh Trung bộ, kinh Ratthapala, số 82; kinh Pháp trang nghiêm, số 89; kinh Brahmayu, số 91; kinh Trường bộ, kinh A-sá-nang-chi, số 32. 24 Kinh Tương ưng, tập 5, chương 12, Tương ưng sự thật, phần a, phẩm Rừng Simsapa, kinh Simsapa. 25 Kinh Trường bộ, kinh Subha, số 10; kinh Trung bộ, kinh Madhura, số 84; kinh Trung bộ, kinh Ghotamukha, số 94; kinh Trung bộ, kinh Gopaka Moggallana, số 108. 1. DẤU THÁNH GIÁ Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. 2. KINH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô cùng. Chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời, và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con, chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống. – Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống, an ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa chúng con. A-men. 3. KINH LẠY CHA Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. A-men. 4. KINH KÍNH MỪNG Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ và Giê-su con lòng Bà gồm phước lạ. Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử. A-men. 5. KINH SÁNG DANH Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. A-men. 6. KINH TIN Lạy Chúa, con tin thật có một Đức Chúa Trời là Đấng thưởng phạt vô cùng. Con lại tin thật Đức Chúa Trời có Ba Ngôi, mà Ngôi thứ Hai đã xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết mà chuộc tội cho thiên hạ. Bấy nhiêu điều ấy cùng các điều Hội Thánh dạy, thì con tin vững vàng vì Chúa là Đấng thông minh và chân thật vô cùng đã phán truyền cho Hội Thánh. A-men. 7. KINH CẬY Lạy Chúa, con trông cậy vững vàng, vì công nghiệp Đức Chúa Giê-su, thì Chúa sẽ ban ơn cho con giữ đạo nên ở đời này, cho ngày sau được lên Thiên đàng, xem thấy mặt Đức Chúa Trời hưởng phúc đời đời, vì Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai được. A-men. 8. KINH MẾN Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng hết sức, trên hết mọi sự, vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng. Lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. A-men. 9. KINH ĂN NĂN TỘI Lạy Chúa, Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng. Chúa đã dựng nên con và cho Con Chúa ra đời chịu nạn chịu chết vì con, mà con đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa, thì con lo buồn, đau đớn cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi sự. Con dốc lòng chừa cải và nhờ ơn Chúa thì con sẽ lánh xa dịp tội cùng làm việc đền tội cho xứng. A-men. 10. KINH TIN KÍNH Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất. Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô là Con một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai sinh bởi Bà Ma-ri-a Đồng trinh, chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây Thánh giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông. Ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng, ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các Thánh thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. A-men. 11. KINH CÁO MÌNH Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em. Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Vì vậy tôi xin Đức Bà Ma-ri-a trọn đời đồng trinh, các thiên thần, các thánh và anh chị em khẩn cầu cho tôi trước tòa Thiên Chúa, Chúa chúng ta. A-men 12. KINH MƯỜI ĐIỀU RĂN Đạo Đức Chúa Trời có Mười Điều răn Thứ nhất Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự. Thứ hai Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ. Thứ ba Giữ ngày Chúa nhật. Thứ bốn Thảo kính cha mẹ. Thứ năm Chớ giết người. Thứ sáu Chớ làm sự dâm dục. Thứ bảy Chớ lấy của người. Thứ tám Chớ làm chứng dối. Thứ chín Chớ muốn vợ chồng người. Thứ mười Chớ tham của người. Mười Điều răn ấy tóm về hai điều này mà chớ trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy. A-men. 13. KINH SÁU ĐIỀU RĂN Hội Thánh có sáu điều răn Thứ nhất Dâng lễ ngày Chúa nhật cùng các ngày lễ buộc Thứ hai Chớ làm việc xác ngày Chúa nhật cùng các ngày lễ buộc, Thứ ba Xưng tội trong một năm ít là một lần, Thứ bốn Chịu Mình Thánh Đức Chúa Giê-su trong mùa Phục sinh, Thứ năm Giữ chay những ngày Hội Thánh buộc, Thứ sáu Kiêng thịt ngày thứ sáu cùng các ngày khác Hội Thánh dạy. 14. KINH CẢI TỘI BẢY MỐI Cải tội bảy mối có bảy đức Thứ nhất Khiêm nhường chớ kiêu ngạo. Thứ hai Rộng rãi chớ hà tiện. Thứ ba Giữ mình sạch sẽ chớ mê dâm dục. Thứ bốn Hay nhịn, chớ hờn giận. Thứ năm Kiêng bớt chớ mê ăn uống. Thứ sáu Yêu người chớ ghen ghét. Thứ bảy Siêng năng việc Đức Chúa Trời chớ làm biếng. 15. KINH TÁM MỐI PHÚC THẬT Phúc thật tám mối Thứ nhất Ai có lòng khó khăn, ấy là phúc thật, vì chưng Nước Đức Chúa Trời là của mình vậy. Thứ hai Ai hiền lành, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy. Thứ ba Ai khóc lóc, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được an ủi vậy. Thứ bốn Ai khao khát nhân đức trọn lành, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được no đủ vậy. Thứ năm Ai thương xót người, ấy là phúc thật, vì chưng mình sẽ được thương xót vậy. Thứ sáu Ai giữ lòng sạch sẽ, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thấy mặt Đức Chúa Trời vậy. Thứ bảy Ai làm cho người hòa thuận, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời vậy. Thứ tám Ai chịu khốn nạn vì đạo ngay, ấy là phúc thật, vì chưng Nước Đức Chúa Trời là của mình vậy. 16. KINH CÁM ƠN Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời, mà lại sinh ra con, cho con được làm người, cùng hằng gìn giữ con, hằng che chở con; lại cho Ngôi Hai xuống thế làm người, chuộc tội chịu chết trên cây Thánh giá vì con, lại cho con được đạo thánh Đức Chúa Trời, cùng chịu nhiều ơn nhiều phép Hội Thánh nữa, và đã cho phần xác con ngày hôm nay đêm nay được mọi sự lành; lại cứu lấy con kẻo phải chết tươi ăn năn tội chẳng kịp. Vậy các thánh ở trên nước Thiên đàng cám ơn Đức Chúa Trời thế nào, thì con cũng hiệp cùng các thánh mà dâng cho Chúa, cùng cám ơn như vậy. A-men. 17. KINH TRÔNG CẬY Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời, xin chớ chê, chớ bỏ lời chúng con nguyện, trong cơn gian nan thiếu thốn. Đức Nữ Đồng trinh hiển vinh sáng láng, hằng chữa chúng con cho khỏi sự dữ. A-men. – Lạy rất thánh Trái Tim Đức Chúa Giê-su. + Thương xót chúng con. – Lạy Trái Tim cực thanh cực tịnh rất thánh Đức Bà Ma-ri-a. + Cầu cho chúng con. – Lạy Ông Thánh Giu-se là bạn thanh sạch Đức Bà Ma-ri-a trọn đời đồng trinh. + Cầu cho chúng con. 18. PHÉP LẦN HẠT NGẮM TẮT NĂM SỰ VUI Thứ nhất thì ngắm Thiên Thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai. Ta hãy xin cho được ở khiêm nhường. Thứ hai thì ngắm Đức Bà đi viếng bà Thánh I-sa-ve. Ta hãy xin cho được lòng yêu người. Thứ ba thì ngắm Đức Bà sinh Đức Chúa Giê-su nơi hang đá. Ta hãy xin cho được lòng khó khăn. Thứ bốn thì ngắm Đức Bà dâng Đức Chúa Giê-su trong Đền thánh. Ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy. Thứ năm thì ngắm Đức Bà tìm được Đức Chúa Giê-su trong Đền thánh. Ta hãy xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn. NĂM SỰ THƯƠNG Thứ nhất thì ngắm Đức Chúa Giê-su lo buồn đổ mồ hôi máu. Ta hãy xin cho được ăn năn tội nên. Thứ hai thì ngắm Đức Chúa Giê-su chịu đánh đòn. Ta hãy xin cho được hãm mình chịu khó bằng lòng. Thứ ba thì ngắm Đức Chúa Giê-su chịu đội mão gai. Ta hãy xin cho được chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng. Thứ bốn thì ngắm Đức Chúa Giê-su vác cây thánh giá. Ta hãy xin cho được vác thánh giá theo chân Chúa. Thứ năm thì ngắm Đức Chúa Giê-su chịu chết trên cây thánh giá. Ta hãy xin đóng đinh tính xác thịt vào thánh giá Chúa. NĂM SỰ MỪNG Thứ nhất thì ngắm Đức Chúa Giê-su sống lại. Ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn. Thứ hai thì ngắm Đức Chúa Giê-su lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời. Thứ ba thì ngắm Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ta hãy xin cho được đầy dẫy mọi ơn Đức Chúa Thánh Thần. Thứ bốn thì ngắm Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời. Ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ. Thứ năm thì ngắm Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Ta hãy xin Đức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên đàng. NĂM SỰ SÁNG Thứ nhất thì ngắm Đức Chúa Giê-su chịu Phép Rửa tại sông Gio-đan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng làm con Chúa. Thứ hai thì ngắm Đức Chúa Giê-su làm phép lạ tại tiệc cưới Ca-na. Ta hãy xin cho được noi gương Đức Mẹ mà vững tin vào Chúa. Thứ ba thì ngắm Đức Chúa Giê-su rao giảng Nước Trời và kêu gọi sám hối. Ta hãy xin cho được vững tin vào lòng Chúa thương xót và siêng năng lãnh nhận Bí Tích Giao Hòa. Thứ bốn thì ngắm Đức Chúa Giê-su biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Thứ năm thì ngắm Đức Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể. Ta hãy xin cho được sốt sắng tham dự Thánh lễ và rước Mình và Máu Thánh Người.

18 kinh cần thuộc